Bình Dương

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bình Dương là một tỉnh thuộc vùng Đông Nam BộViệt Nam.

Tỉnh lỵ của Bình Dương là thành phố Thủ Dầu Một, cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh 30 km theo đường Quốc lộ 13. Đây là tỉnh có dân số đông thứ 6 trong 63 tỉnh thành và cũng là tỉnh có tỷ lệ gia tăng dân số cơ học rất cao do có nhiều người nhập cư, hơn 50% dân số Bình Dương là dân nhập cư.

Năm 2018, Bình Dương là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ bảy về số dân, xếp thứ tư về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP)xếp thứ tư về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 18 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 2.163.600 người dân[2], GRDP đạt 282.999 tỉ Đồng (tương ứng với 12,2909 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 130,8 triệu đồng (tương ứng với 5.681 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 9,01%.[3]

Bình Dương là vùng đất chiến trường năm xưa với những địa danh đã đi vào lịch sử như Phú LợiBàu Bàng, Bến Súc, Lai Khê, Nhà Đỏ và đặc biệt là chiến khu Đ với trung tâm là huyện Tân Uyên (nay là huyện Bắc Tân Uyên và thị xã Tân Uyên), vùng Tam giác sắt trong đó có ba làng An. Ngoài ra còn có khu du lịch Đại Nam là khu du lịch lớn nhất Đông Nam Á.

Bình Dương nổi tiếng với nhiều món ăn ngon và đặc sản lâu đời. Như hạt điều, trái cây và đặt biệt là yến sào, thương hiệu Bảo Yến Bình Dương (đường Nguyễn Trãi) là một thương hiệu yến sào nổi tiếng và uy tín nhất Bình Dương.

Điều kiện kinh tế[sửa | sửa mã nguồn]

Bình Dương thuộc miền Đông Nam Bộ, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam[4], với diện tích 2694,4 km2, xếp thứ 4 trong vùng Đông Nam Bộ[5]. Có tọa độ địa lý là 10o51’46″B – 11o30’B, 106o20′ Đ – 106o58’Đ.

Địa hình Bình Dương tương đối bằng phẳng, hệ thống sông ngòi và tài nguyên thiên nhiên phong phú. Khí hậu mang đặc điểm nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm với 2 mùa rõ rệt, mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ khoảng tháng 12 năm trước đến tháng 4 năm sau, lượng mưa trung bình hàng năm 1.800 mm đến 2.000 mm. Nhiệt độ trung bình hằng năm là 26,5oC.

Bình Dương là cửa ngõ giao thương với Thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm kinh tế – văn hóa của cả nước, có các trục lộ giao thông huyết mạch của quốc gia chạy qua như quốc lộ 13, quốc lộ 14, đường Hồ Chí Minh, đường Xuyên Á … cách sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất và các cảng biển chỉ từ 10 km – 15 km… thuận lợi cho phát triển kinh tế và xã hội toàn diện. Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn ở mức cao, GRDP tăng bình quân khoảng 14,5%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực, công nghiệp, dịch vụ tăng trưởng nhanh và chiếm tỷ trọng cao, năm 2010, tỷ lệ công nghiệp – xây dựng 63%, dịch vụ 32,6% và nông lâm nghiệp 4,4%. Hiện nay, Bình Dương có 28 khu công nghiệp và cụm công nghiệp tập trung có tổng diện tích hơn 8.700 ha với hơn 1.200 doanh nghiệp trong và ngoài nước đang hoạt động có tổng vốn đăng ký hơn 13 tỷ đôla Mỹ[5].

Điều kiện tự nhiên[sửa | sửa mã nguồn]

Quang cảnh Hồ Dầu Tiếng

Chợ Thủ Dầu Một

Nhà cổ Đốc phủ Đẩu

Bình Dương là một tỉnh nằm ở vị trí chuyển tiếp giữa sườn phía nam của dãy Trường Sơn, nối nam Trường Sơn với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, là tỉnh bình nguyên có địa hình lượn sóng từ cao xuống thấp dần từ 10m đến 15m so với mặt biển. Địa hình tương đối bằng phẳng, thấp dần từ bắc xuống nam. Nhìn tổng quát, Bình Dương có nhiều vùng địa hình khác nhau như vùng địa hình núi thấp có lượn sóng yếu, vùng có địa hình bằng phẳng, vùng thung lũng bãi bồi…

Đất đai Bình Dương rất đa dạng và phong phú về chủng loại. Các loại đất như đất xám trên phù sa cổ, có diện tích 200.000 ha phân bố trên các huyện Dầu Tiếng, thị xã Bến CátThuận AnThủ Dầu Một. Đất nâu vàng trên phù sa cổ, có khoảng 35.206 ha nằm trên các vùng đồi thấp thoải xuống, thuộc các thị xã Tân Uyên, huyện Phú Giáo, khu vực Thủ Dầu Một, Thuận An và một ít chạy dọc quốc lộ 13. Đất phù sa Glây (đất dốc tụ), chủ yếu là đất dốc tụ trên phù sa cổ, nằm ở phía bắc huyện Tân Uyên, Phú Giáo, Bến Cát, Dầu Tiếng, Thuận An, thị xã Dĩ An, đất thấp mùn Glây có khoảng 7.900 ha nằm rải rác tại những vùng trũng ven sông rạch, suối.

Khí hậu ở Bình Dương cũng như chế độ khí hậu của khu vực miền Đông Nam Bộ, nắng nóng và mưa nhiều, độ ẩm khá cao. Vào những tháng đầu mùa mưa, thường xuất hiện những cơn mưa rào lớn, rồi sau đó dứt hẳn. Những tháng 7,8,9, thường là những tháng mưa dầm. Có những trận mưa dầm kéo dài 1–2 ngày đêm liên tục. Đặc biệt ở Bình Dương hầu như không có bão, mà chỉ bị ảnh hương những cơn bão gần. Nhiệt độ trung bình hàng năm ở Bình Dương từ 26 °C–27 °C. Nhiệt độ cao nhất có lúc lên tới 39,3 °C và thấp nhất từ 16 °C–17 °C (ban đêm) và 18 °C vào sáng sớm. Vào mùa khô, độ ẩm trung bình hàng năm từ 76%–80%, cao nhất là 86% (vào tháng 9) và thấp nhất là 66% (vào tháng 2). Lượng mùa mưa trung bình hàng năm từ 1.800–2.000 mm.

Chế độ thủy văn của các con sông chảy qua tỉnh và trong tỉnh Bình Dương thay đổi theo mùa: mùa mưa nước lớn từ tháng 5 đến tháng 11 (dương lịch) và mùa khô (mùa kiệt) từ tháng 11 đến tháng 5 năm sau, tương ứng với 2 mùa mưa nắng. Bình Dương có ba con sông lớn, nhiều rạch ở các địa bàn ven sông và nhiều suối nhỏ khác. Về hệ thống giao thông đường thủy, Bình Dương nằm giữa ba con sông lớn, nhất là sông Sài Gòn. Bình Dương có thể nối với các cảng lớn ở phía nam và giao lưu hàng hóa với các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long.

Tài nguyên rừng[sửa | sửa mã nguồn]

Do đặc điểm khí hậu nhiệt đới ẩm và đất đai màu mỡ, nên rừng ở Bình Dương xưa rất đa dạng và phong phú về nhiều chủng loài. Có những khu rừng liền khoảnh, bạt ngàn. Rừng trong tỉnh có nhiều loại gỗ quý như căm xe, sao, trắc, gõ đỏ, cẩm lai, giáng hương… Rừng Bình Dương còn cung cấp nhiều loại dược liệu làm thuốc chữa bệnh, cây thực phẩm và nhiều loài động vật, trong đó có những loài động vật quý hiếm.

Khoáng sản[sửa | sửa mã nguồn]

Cùng với những giá trị quý giá về tài nguyên rừng, Bình Dương còn là một vùng đất được thiên nhiên ưu đãi chứa đựng nhiều loại khoáng sản phong phú tiềm ẩn dưới lòng đất. Đó chính là cái nôi để các ngành nghề truyền thống ở Bình Dương sớm hình thành như gốm sứ, điêu khắc, mộc, sơn mài… Bình Dương có nhiều đất cao lanh, đất sét trắng, đất sét màu, sạn trắng, đá xanh, đá ong nằm rải rác ở nhiều nơi, nhưng tập trung nhất là ở các thị xã Dĩ AnTân UyênThuận An và thành phố Thủ Dầu Một.

Dân cư[sửa | sửa mã nguồn]

Lịch sử phát triển
dân số
Năm Dân số
1995 639.000
1996 658.500
1997 679.000
1998 700.100
1999 720.800
2000 779.400
2001 845.500
2002 910.000
2003 1.000.000
2004 1.037.100
2005 1.109.300
2006 1.203.700
2007 1.307.000
2008 1.402.700
2009 1.512.500
2010 1.619.900
2011 1.691.400
2012 1.748.000
2013 1.802.500
2017 2.051.906
2019 2.426.561
Nguồn:[7]

Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 2.426.561 người, mật độ dân số 628 người/km²[8]. Trong đó dân số nam đạt 1.220.006[9] dân số nữ đạt 1.206.555 người[10]. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 4,93 ‰[11]. Trong đó dân số sống tại thành thị đạt 1.937.759 người, chiếm 79,9% dân số toàn tỉnh[12], dân số sống tại nông thôn đạt 488.802 người, chiếm 20,1% dân số[13]. Trên địa bàn Bình Dương có khoảng 15 dân tộc, nhưng đông nhất là người Kinh và sau đó là người Hoa, người Khmer,… Bình Dương cũng là tỉnh có tỷ lệ đô thị hóa cao nhất cả nước với tỷ lệ 80,5%.

Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 13 tôn giáo khác nhau đạt 216.021 người, nhiều nhất là Công giáo có 108.260 người, tiếp theo là Phật giáo đạt 88.220 người, Phật giáo Hòa Hảo có 10.619 người, đạo Cao Đài có 5.962 người, đạo Tin Lành chiếm 1.962 người, Hồi giáo có 745 người, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa đạt 110 người. Còn lại các tôn giáo khác như Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có 85 người, Bà La Môn có 20 người, Minh Lý Đạo có 13 người, Minh Sư Đạo có 12 người, Bửu Sơn Kỳ Hương có 7 người và 6 người theo Baha’i giáo.[14]

Hành chính[sửa | sửa mã nguồn]

Bản đồ hành chính tỉnh Bình Dương

Tỉnh Bình Dương có 9 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố, 4 thị xã và 4 huyện với 91 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 41 phường, 4 thị trấn và 46 xã.

Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Bình Dương
Tên Diện tích (km²) Dân số (người)2019 Hành chính
Thành phố (1)
Thủ Dầu Một 118,67 325.491 14 phường
Thị xã (4)
Bến Cát 234,42 306.438 5 phường, 3 xã
Dĩ An 60,1 480.413 7 phường
Tân Uyên 192,5 374.986 6 phường, 6 xã
Tên Diện tích (km²) Dân số (người)2019 Hành chính
Thuận An 83,69 603.428 9 phường, 1 xã
Huyện (4)
Bắc Tân Uyên 400,08 66.656 1 thị trấn, 9 xã
Bàu Bàng 339,15 93.798 1 thị trấn, 6 xã
Dầu Tiếng 719,84 113.830 1 thị trấn, 11 xã
Phú Giáo 543 90.825 1 thị trấn, 10 xã

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Bình Dương là một phần của tỉnh Thủ Dầu Một xưa kia. Tỉnh Thủ Dầu Một được thành lập tháng 12 năm 1899 từ Sở Tham biện Thủ Dầu Một, tách từ tỉnh Biên Hòa.

Tháng 10 năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa giải thể tỉnh Thủ Dầu Một để thành lập các tỉnh Bình Dương, Bình Long và Phước Long. Như vậy Bình Dương là một trong 22 tỉnh của Nam Phần được chính quyền Việt Nam Cộng Hòa thiết lập theo Sắc lệnh 143-NV ngày 22 tháng 10 năm 1956. Tỉnh lị là thị xã Phú Cường. Tỉnh Bình Dương bao gồm 5 quận, 10 tổng, 60 xã:

  • Quận Châu Thành, có 3 tổng là Bình Điền, Bình Phú, Bình Thiện; quận lỵ: Phú Cường.
  • Quận Lái Thiêu, có 1 tổng là Bình Chánh; quận lị: Tân Thới.
  • Quận Bến Cát, có 2 tổng là Bình An, Bình Hưng; quận lỵ: Mỹ Phước.
  • Quận Trị Tâm (Dầu Tiếng), có 1 tổng là Bình Thạnh Thượng; quận lỵ: Định Thành.
  • Quận Củ Chi, có 3 tổng là Long Tuy Hạ, Long Tuy Trung, Long Tuy Thượng; quận lỵ: Tân An Hội. Quận Củ Chi vốn trước đây là một phần quận Hóc Môn, tỉnh Gia Định, đến năm 1963 chuyển sang tỉnh Hậu Nghĩa mới thành lập.

Năm 1959, cắt một phần đất, cùng với phần đất của các tỉnh Biên HòaLong KhánhPhước Long, để lập tỉnh Phước Thành. Tỉnh này tồn tại đến năm 1965 thì giải thể.

Ngày 18 tháng 12 năm 1963, tách một phần quận Củ Chi về tỉnh Hậu Nghĩa mới thành lập. Phần còn lại của quận Củ Chi lập thành quận Phú Hòa, quận lị đặt tại Bến Cỏ, xã Phú Hòa Đông, sau dời về xã Tân Hòa. Sau năm 1975, quận Phú Hòa lại nhập với quận Củ Chi, tỉnh Hậu Nghĩa thành huyện Củ Chi thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.

Năm 1965, quận Phú Giáo của tỉnh Phước Thành vừa giải thể được nhập vào tỉnh Bình Dương.

Dân số tỉnh Bình Dương 1967[15]
Quận Dân số(người)
Bến Cát 23.469
Châu Thành 95.705
Lái Thiêu 45.992
Phú Hòa 48.913
Phú Giáo 13.397
Trị Tâm (Dầu Tiếng) 22.946
Tổng số 250.422

Năm 1976, chính quyền mới hợp nhất 3 tỉnh Bình Dương, Bình Long và Phước Long cũ thành tỉnh Sông Bé, đến ngày 1 tháng 1 năm 1997 lại tách ra thành hai tỉnh Bình Dương và Bình Phước.

Khi vừa tái lập, tỉnh Bình Dương có diện tích 2.718,5 km², dân số 646.317 người, gồm thị xã Thủ Dầu Một và 3 huyện: Bến CátTân UyênThuận An. Tỉnh lỵ đặt tại thị xã Thủ Dầu Một.

Ngày 23 tháng 7 năm 1999, huyện Thuận An được chia thành 2 huyện Thuận An và Dĩ An, huyện Bến Cát được chia thành 2 huyện Bến Cát và Dầu Tiếng, huyện Tân Uyên được chia thành 2 huyện Tân Uyên và Phú Giáo[16].

Như vậy, đến thời điểm này, tỉnh Bình Dương có 7 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm thị xã Thủ Dầu Một (tỉnh lỵ) và 6 huyện: Bến Cát, Dầu Tiếng, Dĩ An, Phú Giáo, Tân Uyên, Thuận An.

Ngày 13 tháng 1 năm 2011, Chính phủ ra Nghị quyết 04/NQ-CP, chuyển huyện Thuận An thành thị xã Thuận An và chuyển huyện Dĩ An thành thị xã Dĩ An[17].

Ngày 2 tháng 5 năm 2012, Chính phủ ra Nghị quyết 11/NQ-CP, chuyển thị xã Thủ Dầu Một thành thành phố Thủ Dầu Một[18].

Ngày 29 tháng 12 năm 2013, Chính phủ ra Nghị quyết 136/NQ-CP chia huyện Bến Cát thành thị xã Bến Cát và huyện Bàu Bàng, chia huyện Tân Uyên thành thị xã Tân Uyên và huyện Bắc Tân Uyên[19].

Từ đó, tỉnh Bình Dương có 9 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 1 thành phố, 4 thị xã và 4 huyện như ngày nay.

Ngày 8 tháng 7 năm 2014Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 1120/QĐ-TTg công nhận thành phố Thủ Dầu Một là đô thị loại II[20].

Ngày 27 tháng 4 năm 2017, Bộ xây dựng công nhận 2 thị xã Dĩ An và Thuận An là đô thị loại III.[21]

Ngày 6 tháng 12 năm 2017, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 1959/QĐ-TTg công nhận thành phố Thủ Dầu Một là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Bình Dương[22].

Ngày 24 tháng 10 năm 2018, Bộ Xây dựng công nhận 2 thị xã Bến Cát và Tân Uyên là đô thị loại III[23].

Chính trị[sửa | sửa mã nguồn]

Cơ quan chính trị cao nhất của tỉnh Bình Dương là Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương, hay Đảng ủy tỉnh Bình Dương, gọi tắt Tỉnh ủy Bình Dương, là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng bộ Tỉnh Bình Dương giữa hai kỳ đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh. Đứng đầu Tỉnh ủy là Bí thư Tỉnh ủy và thường là ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng. Bí thư Tỉnh ủy Bình Dương hiện nay là Trần Văn Nam.

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 2 năm 1936 thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ nhất đồng thời để đáp ứng nhiệm vụ trong thời kỳ hiện tại Xứ ủy Nam Kỳ đã chỉ định Ban Chấp hành Tỉnh ủy lâm thời Thủ Dầu Một gồm 5 ủy viên. Đến tháng 1 năm 1937, Trung ương Đảng chính thức công nhận Tỉnh ủy lâm thời, với tên gọi chính thức là Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thủ Dầu Một.

Khi Thế chiến II bùng nổ, chính quyền thực dân Pháp trấn áp các phòng trào đòi độc lập. Tháng 11 năm 1940, Khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra bất thành, chính quyền thực dân Pháp khủng bố ác liệt, nhiều đảng viên phải lẩn tránh nhiều nơi. Tỉnh ủy Thủ Dầu Một bị xóa sổ.

Giữa năm 1942, nhiều đảng viên tập hợp quay trở lại, tháng 3 năm 1943 Tỉnh ủy Thủ Dầu Một được tái lập. Tháng 5 năm 1943, Bí thư các Tỉnh ủy Thủ Dầu MộtBiên HòaGia ĐịnhChợ LớnTây Ninh họp lại thành lập Liên Tỉnh ủy miền Đông để chỉ đạo chung các phong trào tại địa phương.

Khi Cách mạng tháng 8 nổ ra, Tỉnh ủy chức tổng khởi nghĩa giành chính quyền tại tỉnh và thành lập Ủy ban nhân dân tỉnh. Giữa tháng 9, Ủy ban nhân dân tỉnh đổi tên thành Ủy ban Hành chánh kháng chiến tỉnh.

Cuối tháng 9 năm 1945, Liên quân Anh – Pháp nổ súng quân tái chiếm Nam Bộ. Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Nam BỘ quyết định Nam Bộ kháng chiến. Thực hiện chủ trương “giải tán” của Đảng ngày 11/11/1945, Tỉnh ủy cũng tiến hành tự “giải tán”, thực chất phát triển phong trào cách mạng dưới tên Việt Minh.

Theo chủ trương tháng 3 năm 1951 của Trung ương Đảng, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một và Tỉnh ủy Biên Hòa sáp nhập thành Tỉnh ủy Thủ Biên, hoạt động đưới sự chỉ đạo của Phân liên khu ủy miền Đông gồm đặc khu Sài Gòn – Chợ Lớn, và 5 tỉnh Gia Định NinhThủ BiênBà Rịa – Chợ LớnMỹ ThoLong Châu Sa. Đại diện cho Trung ương là cơ quan Xứ ủy Nam Bộ chỉ đạo hoạt động trên toàn miền Nam.

Sau khi Hiệp định Geneve được ký, Tỉnh ủy Thủ Biên chuẩn bị lực lượng thi hành Hiệp định. Theo các thảo thuận về tập kết 2 bên, Xứ ủy Nam Bộ quyết định phân chia lại địa bàn các tỉnh để phù hợp với tình hình mới. Cuối năm 1954 Tỉnh Thủ Biên tách lại 2 tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Hòa. Tháng 1/1955 Hội nghị Ban Chấp hành tỉnh Thủ Dầu Một được tổ chức.

Sau khi Ngô Đình Diệm phế truất Bảo Đại làm Tổng thống, thực thực hiện chính sách “tố cộng, diệt cộng“. Từ năm 1956, chính quyền Ngô Đình Diệm nhiều cuộc càn quét quy mô lớn khiến cho Tỉnh ủy Thủ Dầu Một tổn thất rất lớn. Đầu năm 1960, phong trào Đồng khởi tại Bến Tre nổ ra. Tỉnh ủy Thủ Dầu Một thành lập Ban chỉ đạo đồng khởi của tỉnh và tiến hành đồng khởi tại tỉnh tháng 2 năm 1960. Tuy nhiên, đồng khởi nhanh chóng bị trấn áp và thất bại.

Để phù hợp tình hình mới, Xứ ủy Nam Bộ sáp nhập 2 tỉnh Thủ Dầu Một, Biên Hòa thành tỉnh Thủ Biên. Tháng 9/1960 Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thủ Biên được chỉ định. Đầu năm 1961 Trung ương Cục miền Nam được thành lập thay thế cho Xứ ủy Nam Bộ. Trung ương Cục quyết định tách ra, tái lập lại 2 tỉnh Biên Hòa, Thủ Dầu Một và thành lập tỉnh Phước Thành để phù hợp với chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ. Tháng 6/1961 Tỉnh ủy Thủ Dầu Một và Tỉnh ủy Phước Thành được thành lập.

Tháng 10/1967 Bộ Chính trị phê chuẩn Nghị quyết của Trung ương Cục miền Nam và Quân ủy Miền về tiến hành tổng công kích-tổng khởi nghĩa, còn gọi “Nghị quyết Quang Trung“. Trung ương Cục quyết định sắp xếp lại các lực lượng để tiến hành Tổng khởi nghĩa. Tổ chức thành 5 phân khu hướng tiến công Sài Gòn-Gia Định và khu vực xung quanh. Căn cứ vào tình hình chiến trường, Trung ương Cục quyết định thành lập Ban Chấp hành các phân khu thay cho các Tỉnh ủy. Tỉnh ủy Thủ Dầu Một được sáp nhập vào Ban chấp hành Phân khu ủy Phân khu 5.

Tháng 6/1969 Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập. Để đáp ứng nhiệm vụ mới, tháng 5/1971 Trung ương Cục quyết định sáp nhập Phân khu 5 và tỉnh Biên Hòa thành Phân khu Thủ Biên, Trung ương Cục chỉ định Ban chấp hành Phân khu ủy Thủ Biên. Đến cuối năm 1972, Trung ương Cục quyết định tổ chức lại chiến trường miền Đông Nam Bộ, giải thể các Phân khu, thành lập lại các tỉnh. Tháng 9/1972 Phân khu Thủ Biên được giải thể, tỉnh Thủ Dầu Một được tái lập. Trung ương cục chỉ định Tỉnh ủy Thủ Dầu Một.

Tháng 12/1975 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 19-NQ/TW về phát triển đất nước sau chiến tranh. Thực hiện Nghị quyết, Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam đã ban hành các nghị quyết giải thể khu, hợp nhất một số tỉnh ở miền Nam. Tháng 2/1976 tỉnh Thủ Dầu Một và Bình Phước được sáp nhập thành tỉnh Sông Bé, đồng thời Trung ương Cục cũng chỉ định Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh Sông Bé. Tháng 11/1976, Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Sông Bé lần thứ nhất (vòng 1) diễn ra từ ngày 10-20/11/1976, nhiệm vụ chính là tham gia thảo luận ý kiến chính trị, bầu đại biểu tham dự Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng. Ngày 19/4/1977, Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Sông Bé lần thứ nhất (vòng 2) được khai mạc. Đại hội đã chính thức bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Sông Bé với nhiệm kỳ 1976-1979. Sau Đại hội, Tỉnh ủy tiến hành đại hội Đảng vòng 2 ở các Đảng bộ trực thuộc tỉnh ủy.

Tại kỳ họp thứ 10 (15/10-12/11/1996) Quốc hội khóa IX ra nghị quyết về việc chia tách tỉnh và điều chỉnh địa giới hành chính, trong đó có tỉnh Sông Bé. Ngày 1/1/1997 tỉnh Bình Dương được tái lập. Trước đó ngày 12/12/1996 Bộ Chính trị ra Nghị quyết 118-QĐNS/TW thành lập Đảng bộ Bình Dương và chỉ định Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh Bình Dương.

Thực hiện Chỉ thị 51-CT/TW của Ban Bí thư và Hướng dẫn 06-HD/TC-TW ngày 23/7/1997 của Ban Tổ chức Trung ương về việc chuẩn bị và tiến hành Đại hội Đảng bộ các tỉnh, thành phố mới được chia tách. Tỉnh ủy lâm thời tổ chức Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Dương lần thứ VI từ 17-19/12/1997. Đại hội chính thức bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương khóa VI gồm 47 ủy viên.

Các đời Bí thư Tỉnh ủy[sửa | sửa mã nguồn]

Giai đoạn 1936-1976

Stt Họ và tên Nhiệm kỳ Chức vụ Ghi chú
1
Trương Văn Nhâm
2/1936-12/1936
Xứ ủy viên Xứ ủy Nam Kỳ
Bí thư Tỉnh ủy lâm thời Thủ Dầu Một
Nhận nhiệm vụ khác
2
Hồ Văn Cống
1/1937-2/1943
Bí thư Tỉnh ủy Thủ Dầu Một Bị Pháp bắt
3
Văn Công Khai
3/1943-3/1946
Bí thư Tỉnh ủy Thủ Dầu Một
Trưởng ban Ủy ban khởi nghĩa tỉnh (1945)
4
Nguyễn Văn Tiết
3/1946-4/1948
Bí thư Tỉnh ủy Thủ Dầu Một
Chủ nhiệm Tỉnh bộ Việt Minh
5
Vũ Duy Hanh
4/1948-9/1949
Bí thư Tỉnh ủy Thủ Dầu Một
6
Nguyễn Quang Việt
10/1949-5/1951
5/1951-1/1955
Bí thư Tỉnh ủy Thủ Dầu Một
Bí thư Tỉnh ủy Thủ Biên
7
Lê Đình Nhơn
1/1955-9/1956
Bí thư Tỉnh ủy Thủ Dầu Một Bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt
8
Võ Văn Đợi
10/1956-9/1960
Bí thư Tỉnh ủy Thủ Dầu Một
9
Lê Quang Chữ
9/1960-6/1961
Bí thư Tỉnh ủy Thủ Biên
10
Nguyễn Văn Trung
6/1961-5/1965
Bí thư Tỉnh ủy Thủ Dầu Một
11
Trần Quốc Ân
5/1965-11/1965
Bí thư Tỉnh ủy Thủ Dầu Một
10
Nguyễn Văn Trung
11/1965-10/1967
Bí thư Tỉnh ủy Thủ Dầu Một
11
Hoàng Minh Đạo
10/1967-6/1969
Bí thư Phân khu ủy kiêm Chính ủy lực lượng vũ trang Phân khu 5
12
Nguyễn Văn Trung
6/1969-5/1971
5/1971-9/1972
9/1972-10/1974
Bí thư Phân khu ủy Phân khu 5[24]
Bí thư Phân khu ủy Phân khu Thủ Biên
Bí thư Tỉnh ủy Thủ Dầu Một
13
Nguyễn Văn Luông
10/1974-12/1975
Bí thư Tỉnh ủy Thủ Dầu Một

Kinh tế – xã hội[sửa | sửa mã nguồn]

Chùa Bà, Bình Dương

Đại học Bình Dương

Sân vận động Gò Đậu

Đường phố ở Tx Dĩ An

Kinh tế[sửa | sửa mã nguồn]

Bình Dương là một trong những địa phương năng động trong kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài. Với chủ trương tạo ra một môi trường đầu tư tốt nhất hiện nay tại Việt Nam, tính đến tháng 10/2006, tỉnh đã có 1.285 dự án FDI với tổng số vốn 6 tỷ 507 triệu USD. Năm 2007, tỉnh Bình Dương đặt mục tiêu thu hút trên 900 triệu USD vốn đầu tư nước ngoài (FDI), tăng hơn 2,5 lần so với năm 2006. Theo bảng xếp hạng Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2006, tỉnh Bình Dương đứng đầu cả nước với 76,23 điểm, trong khi thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước, lần lượt xếp thứ thứ 40 với 50,34 điểm và xếp thứ 7 với 63,39 điểm.

Bình Dương có khoảng 28 khu công nghiệp (KCN) đang hoạt động, trong đó nhiều KCN đã cho thuê gần hết diện tích như KCN Sóng Thần I, KCN Sóng Thần II, KCN Đồng An, KCN Nam Tân Uyên, KCN Tân Đông Hiệp A, KCN Việt Hương, KCN VSIP – Việt Nam Singapore, các KCN Mỹ Phước 1, 2, 3, 4 và 5. Các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh đã thu hút 938 dự án đầu tư, trong đó có 613 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn 3,483 triệu USD và 225 dự án đầu tư trong nước có số vốn 2.656 tỷ đồng. Nhằm tăng sự thu hút đầu tư, địa phương này đang tập trung hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đẩy nhanh tiến độ thi công các khu công nghiệp mới để phát triển công nghiệp ra các huyện phía bắc của tỉnh.

Tháng 10 năm 2012, Bình Dương tiếp tục thực hiện các giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tháo gỡ khó khăn của doanh nghiệp đảm bảo an sinh xã hội. Các doanh nghiệp xuất khẩu đã ký đơn hàng và khai thác thị trường mới đối với các mặt hàng và nhóm ngành hàng xuất khẩu chủ lực như sản phẩm gỗ, hàng dệt may, hàng giày dép, mủ cao su,…). So với tháng trước, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 1 tỷ 178 triệu đô la Mỹ, tăng 5% và tăng 11,9% so với cùng kỳ; kim ngạch nhập khẩu ước đạt 987 triệu đô la Mỹ, tăng 5,9% và tăng 7,2% so với cùng kỳ[25].

Lũy kế 10 tháng năm 2012, đầu tư trong nước có 1.375 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh mới và 418 doanh nghiệp tăng vốn 11.010 tỷ đồng, đầu tư nước ngoài 2 tỷ 589 triệu đô la Mỹ, gồm 96 dự án mới với tổng vốn đầu tư 1 tỷ 568 triệu đô la Mỹ và 107 dự án tăng vốn với tổng số vốn tăng 1 tỷ 021 triệu đô la Mỹ[25]. Giá trị sản xuất công nghiệp đạt 108.941 tỷ đồng, tăng 12,9% so với cùng kỳ, so với tháng trước, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước thực hiện đạt 5.702 tỷ đồng, tăng 1,2%, chỉ số giá tiêu dùng tăng 0,51%, thu ngân sách 19.500 tỷ đồng, đạt 72,2% dự toán hội đồng nhân dân tỉnh giao, trong đó thu nội địa đạt 13.500 tỷ đồng, thu từ lĩnh vực xuất nhập khẩu 6.000 tỷ đồng. Tổng vốn huy động tín dụng ước đạt 71,206 tỷ đồng, tăng 1,19% so với tháng trước, tăng 24,1% so với đầu năm, dư nợ cho vay đạt 52.390 tỷ đồng, tăng 2,6% so với đầu năm, tỷ lệ nợ xấu khoảng 1.368 tỷ đồng, chiếm 2,51%[25].

Giáo dục[sửa | sửa mã nguồn]

Danh sách các trường Cao đẳng, Đại học, Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề:

Văn hóa[sửa | sửa mã nguồn]

Bình Dương có các làng nghề truyền thống, như điêu khắc gỗ, làm đồ gốm và tranh sơn mài. Từ xa xưa các sản phẩm gốm mỹ nghệ, sơn mài và điêu khắc của Bình Dương đã tham gia hội chợ quốc tế, đồng thời cũng đã xuất khẩu sang Pháp và nhiều nước trong khu vực.

Giao thông[sửa | sửa mã nguồn]

Bình Dương là một tỉnh có hệ thống giao thông đường bộ và đường thủy rất quan trọng nối liền giữa các vùng trong và ngoài tỉnh. Trong hệ thống đường bộ, Quốc lộ 13 là con đường chiến lược cực kỳ quan trọng xuất phát từ Thành phố Hồ Chí Minh, chạy suốt chiều dài của tỉnh từ phía nam lên phía bắc, qua tỉnh Bình Phước và nối Vương quốc Campuchia xuyên đến biên giới Thái Lan và Lào. Đây là con đường có ý nghĩa chiến lược cả về quân sự và kinh tế. Đường Quốc lộ 14, từ Tây Ninh qua Dầu Tiếng đi Chơn ThànhĐồng XoàiBù Đăng thuộc tỉnh Bình Phước xuyên suốt vùng Tây Nguyên, là con đường chiến lược quan trọng cả trong chiến tranh cũng như trong thời kỳ hòa bình xây dựng đất nước. Ngoài ra còn có Tỉnh lộ 741 từ Thủ Dầu Một đi Phước Long… và hệ thống đường nối thị xã với các thị trấn và điểm dân cư trong tỉnh[26].

Về hệ thống giao thông đường thủy, Bình Dương nằm giữa ba con sông lớn, nhất là sông Sài Gòn. Bình Dương có thể nối với các cảng lớn ở phía nam và giao lưu hàng hóa với các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long[26].

Phát triển đô thị[sửa | sửa mã nguồn]

  1. Thành phố Thủ Dầu Một: Đô thị loại I
  2. Thị xã Thuận An: Đô thị loại III. Dự kiến phát triển thành thành phố, đô thị loại II vào năm 2020
  3. Thị xã Dĩ An: Đô thị loại III. Dự kiến phát triển thành thành phố, đô thị loại II vào năm 2020
  4. Thị xã Bến Cát: Đô thị loại III. Dự kiến phát triển thành thành phố, đô thị loại II sau năm 2020
  5. Thị xã Tân Uyên: Đô thị loại III. Dự kiến phát triển thành thành phố, đô thị loại II sau năm 2020
  6. Thị trấn Lai Uyên (Bàu Bàng): Đô thị loại V. Dự kiến phát triển thành đô thị loại IV vào năm 2020
  7. Thị trấn Tân Thành (Bắc Tân Uyên): Đô thị loại V. Dự kiến phát triển thành đô thị loại IV vào năm 2020
  8. Thị trấn Dầu Tiếng (Dầu Tiếng): Đô thị loại V. Dự kiến phát triển thành đô thị loại IV vào năm 2020
  9. Thị trấn Phước Vĩnh (Phú Giáo): Đô thị loại V. Dự kiến phát triển thành đô thị loại IV vào năm 2020.

Người nổi tiếng[sửa | sửa mã nguồn]

Thành phố kết nghĩa[sửa | sửa mã nguồn]

Bình Dương hiện tại kết nghĩa với các thành phố hoặc vùng sau đây[27]:

Thành phố/Tỉnh/Vùng Từ
KratiéCampuchia
DaejeonHàn Quốc 17 tháng 5 năm 2005
ChampasackLào 13 tháng 11 năm 2006
Quảng ĐôngTrung Quốc 21 tháng 8 năm 2013
Emilia-RomagnaÝ 16 tháng 10 năm 2013
YamaguchiNhật Bản 25 tháng 12 năm 2014
EindhovenHà Lan 16 tháng 1 năm 2015[28]
Đông FlandersBỉ 14 tháng 10 năm 2015
Emmen, Hà Lan 17 tháng 11 năm 2015
OryolNga 7 tháng 7 năm 2017

Hình ảnh[sửa | sửa mã nguồn]

 

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *